---o0o---
Chú thích
- S: nguyên tác tiếng Sanskrit của mục từ dạng La-tinh hóa
- P: nguyên tác tiếng Pàli của mục từ dạng La-tinh hóa
- A: tiếng Anh
- H: tiếng Hán
- Ph: tiếng Pháp
- T: tên mục từ bằng tiếng Tây Tạng dạng La-tinh hóa.
- Hâ: các hình thức phiên âm tiếng Việt khác nhau của một mục từ.
- Hd: các hình thức dịch nghĩa khác nhau của một mục từ.
- Td: tân dịch.
- Cd: cựu dịch.
- Đl: đối lại
- x: xem
- Đn: đồng nghĩa.
- Vd: ví dụ
- Gđ: cách gọi đầy đủ của một mục từ.
- Gt: cách gọi giản lược hay vắn tắt của một mục từ.
- Cg: hình thức đồng nghĩa hay tên gọi khác của một mục từ.
- Tên khoa học: tên gọi theo khoa học của một mục từ.
- k. ng.: khẩu ngữ
- X.: xem.
- CĐTĐL: Cảnh Đức Truyền Đăng lục
- CTTNL: Cổ tôn túc ngữ lục
- ĐQMT: Đại quang minh tạng
- DTNL: Duy Tắc ngữ lục
- GTPĐL: Gia Thái Phổ Đăng lục
- HĐNL: Hư Đường ngữ lục
- HSLNMDT: Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du tập
- KTTQTĐL: Kiến trung tịnh quốc tục đăng lục
- LĐHY: Liên Đăng Hội Yếu
- LSPGĐT: Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong
- MANL: Mật Am ngữ lục
- MBTL: Minh Bản Tạp lục
- MGNL: Minh Giác ngữ lục
- NĐHN: Ngũ Đăng Hội Nguyên
- NGCTT: Ngũ Gia Chính Tông Tán
- NHQL: Nguyên Hiền quảng lục
- NLNL: Nguyên Lai ngữ lục
- NTNL: Như Tịnh ngữ lục
- PDNL: Pháp Diễn ngữ lục
- PDNL: Phần Dương ngữ lục
- PKNL: Phạm Kỳ ngữ lục
- PQĐTĐ: Phật Quang Đại Từ Điển
- TBCTT: Tăng Bảo Chính Tục truyện
- TLTBT: Thiền Lâm Tăng Bảo truyện.
- ThQST: Thiền Quan Sách Tiến
- TĐT: Tổ Đường tập
- TCTT: Tống Cao Tăng truyện
- TTĐL: Tục Truyền Đăng lục
- ThMMBTSTL: Thiên Mục Minh Bản Thiền sư tạp lục
- VHVNTH 1989-1995: Văn hóa Việt Nam Tổng Hợp 1989-1995

---o0o---
Danh Từ Phật Học: Bát Bất Tư Nghị
----------------------------- Phật Học Danh Số - Ns Đức Trí -----------------------------
● Bát bất tư nghì gọi cho đủ là Bát bất khả tư nghì (nghị) là tám điều chẳng thể nghĩ bàn của Tôn giả A Nan. Theo Kinh Niết Bàn (bắc bản) có ghi rằng A Nan hầu Phật hơn 20 năm, đầy đủ tám điều chẳng thể nghĩ bàn bao gồm:
- Chẳng nhận lời mời riêng: A Nan hành động đều tùy chúng, không thọ lời mời riêng của thí chủ, thọ thực trái với chúng.
- Chẳng nhận y cũ: Tuy là y phục cũ của Như Lai, A Nan cũng không dám nhận.
- Gặp Phật đúng lúc: A Nan làm thị giả Phật, gặp Phật đều đúng thời, đúng giờ giấc, như lúc Phật đối cơ ứng pháp, hoặc thay chúng đưa câu hỏi thì mới đến chỗ Phật.
- Gặp phái nữ không sanh lòng dục: A Nan xa lìa tham ái, không có các dục tưởng, lúc gặp nữ nhân, thiên nữ, long nữ đều không sanh nhiễm trước.
- Pháp không hỏi lại: A Nan nghe mười hai thể Kinh do Đức Phật giảng thuyết, liền giải ngộ, chẳng cần hỏi lại.
- Biết định mà Như Lai nhập: A Nan thường biết các định Như Lai nhập và xem Đức Phật nói pháp yếu gì, cho hạng căn cơ nào nghe.
- Biết chúng hội được ích lợi: Những chúng sanh nào sau khi nghe Phật nói pháp yếu xong, họ được những tướng lợi ích gì và sở chứng khác nhau A Nan đều rõ biết.
- Biết hết các pháp Phật nói: A Nan nghe pháp Như Lai nói, tùy căn khí có lớn nhỏ chẳng đồng Giáo pháp có thiên viên khác nhau mà Ngài có thể biết rõ ý nghĩa bí mật.
----------------------------- Pháp Số Căn Bản - Cs Hạnh Cơ -----------------------------
● Tám Điều Không Thể Nghĩ Bàn. Trong suốt thời gian hơn 20 năm làm thị giả thường xuyên cho Phật, tôn giả A Nan luôn luôn thực hiện 8 điều không thể nghĩ bàn:
1. Không nhận lời mời riêng (Bất Thọ Biệt Thỉnh). Nhất cử nhất động, tôn giả đều theo cùng tăng chúng, không bao giờ nhận lời mời của một vị thí chủ nào để đi thọ trai riêng một mình.
2. Không nhận y cũ (Bất Thọ Cố Y). Dù đức Thế Tôn có cho y phục cũ của Ngài, tôn giả không bao giờ dám thọ nhận.
3. Yết kiến luôn luôn đúng giờ (Kiến Bất Phi Thời). Với bổn phận làm thị giả cho Phật, bất cứ ai xin yết kiến riêng Đức Phật, đều do tôn giả sắp xếp giờ giấc. Khi giờ giấc đã sắp xếp xong, tôn giả đều nhớ hết, và thực hiện đúng thời, không bao giờ làm cho ai phải phiền hà.
4. Thấy người nữ không sinh tâm ái dục (Kiến Nữ Nhân Bất Sinh Dục Tâm). Dù chưa chứng quả A La Hán, tôn giả cũng đã vĩnh viễn xa lìa tham ái, không còn các niệm tưởng dục vọng; trông thấy phái nữ, dù là thiên nữ, đều không sinh tâm nhiễm trước.
5. Pháp đã nghe không hỏi lại (Pháp Bất Tái Vấn). Tất cả kinh điển, khi nghe Phật thuyết xong, tôn giả liền hiểu rõ, nhớ kĩ, không bao giờ hỏi lại Đức Phật lần thứ hai.
6. Biết rõ các loại định Đức Phật đang nhập (Tri Phật Sở Nhập Định). Tôn giả thường biết rõ các loại định Đức Phật đang nhập, và soi thấy rõ căn cơ nào, mà Đức Phật sẽ nói pháp yếu nào.
7. Biết rõ chúng hội đạt được lợi ích (Tri Chúng Hội Đắc Ích). Tất cả những người đến nghe Phật nói pháp yếu, đều đạt được lợi ích và chỗ chứng ngộ không đồng nhau, đối với sự việc ấy, tôn giả biết rõ hết.
8. Tất cả lời dạy của Phật thảy đều biết rõ hết (Tất Tri Phật Sở Thuyết Pháp). Tất cả giáo pháp Phật dạy, dù cho tùy theo căn cơ cao thấp không đồng nhau mà giáo pháp có sâu cạn khác nhau, tôn giả đều biết rõ thâm nghĩa mật ý của Phật.
Mặt khác, trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật cũng nêu ra 8 tính chất không thể nghĩ bàn của biển cả để ví dụ cho đặc tính của Niết Bàn:
1. Dần dần càng sâu (Tạm Tạm Chuyển Thâm). Trong bờ biển cạn, càng ra khơi biển càng sâu. Đức Phật nói pháp Niết Bàn cũng vậy, tùy theo căn tánh của chúng sinh mà tuần tự hóa độ theo thứ lớp, từ cạn đến sâu, từ thấp lên cao, cho đến chỗ cứu cánh cùng cực.
2. Sâu khó tới đáy (Thâm Nan Đắc Để). Biển rất sâu, nếu không có phương tiện tân tiến thì khó có thể xuống tới đáy được. Đức Phật nói pháp Niết Bàn cũng vậy, lí trí viên dung, sâu xa vi diệu, dù hàng Nhị thừa cho đến Bồ Tát cũng không suy lường được đến chỗ tột cùng.
3. Cùng một vị mặn (Đồng Nhất Hàm Vị). Nước của trăm dòng sông, khi đã chảy vào biển cả thì có cùng một vị mặn. Phật nói pháp Niết Bàn, tuy có các thừa Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật thừa khác nhau, nhưng đều qui về một vị, đó là “vị giải thoát”.
4. Thủy triều không quá hạn (Triều Bất Quá Hạn). Thủy triều sớm chiều lên xuống chừng mực, không vượt quá giới hạn. Đức Phật nói pháp Niết Bàn, chế định các giới cấm, khiến các đệ tử như pháp thọ trì, không được vượt quá.
5. Chứa rất nhiều kho báu (Chủng Chủng Bảo Tạng). Tất cả mọi thứ châu báu đều hàm chứa trong biển cả. Đức Phật nói pháp Niết Bàn là kho báu của thế gian, rất tôn rất quí. Phàm chúng sinh nghèo túng về giáo pháp, đều có thể nương vào đó mà tu tập, khiến cho thoát được khổ đau bức bách, đạt được lợi ích an lạc xuất thế gian.
6. Có chúng sinh thân lớn cư trú (Đại Thân Chúng Sinh Cư Trú). Trong biển cả, tất cả các loài cá có thân hình to lớn như cá voi, cá nhà táng, đều nương nơi đó mà ở. Đức Phật nói pháp Niết Bàn sâu xa không lường, tất cả chư Phật và Bồ Tát đều an trú ở trong đó.
7. Không chứa xác chết (Bất Túc Tử Thi). Biển cả không chứa giữ tử thi. Những việc làm phi pháp như ăn cắp vật dụng của tăng chúng, cất chứa các vật bất tịnh, hủy báng kinh pháp Đại Thừa v. v..., và tất cả những loại người tà ác, đều được xem như tử thi. Đức Phật nói pháp Niết Bàn, khiến cho chúng sinh thường trú trong giới pháp, sinh tâm chánh tín thanh tịnh, không khởi kiến chấp đoạn diệt, xa lìa tất cả mọi loại người tà ác.
8. Muôn sông mưa lớn không tăng không giảm (Vạn Lưu Đại Vũ Bất Tăng Bất Giảm). Dù cho hàng vạn dòng sông đổ nước vào, dù cho mưa lớn trút nước xuống, nước trong biển cả vẫn không hề tăng giảm. Đức Phật nói pháp Niết Bàn là đàm luận sâu rộng về Phật tánh, diễn nói đầy đặn về các đức tính viên thường, bình đẳng, thanh tịnh, Bất Sinh, bất diệt, chúng sinh cùng chư Phật đồng một nguồn giác, chưa từng sai khác.
An Sĩ Toàn Thư – Quyển Một – Quan Công Hộ Trì Chánh Pháp     TÍCH CỦA KHÔNG BẰNG TÍCH ĐỨC     Hạt Sen Xào Bơ     Sự Tích Giới Luật – Ba Mươi Pháp Xả Đọa ( Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề ) – Phần 2     Những Lời Dạy Từ Các Thiền Sư Việt Nam Xưa ( Phần 3 ) – Tìm Tâm     Hiểu câu chú – Chưa đắc đã chết?     Nghi tình thì không có gì cả, không phải là nhất tâm, vậy có đúng không?     THỨC ĂN UỐNG TỰ NHIÊN HÓA HIỆN – SỰ TU TẬP THÍCH HỢP     Vậy Sao?     Căn Tính     




















































Pháp Ngữ
Ai cầu hạnh phúc cho mình
Mà dùng dao gậy gian manh hại người
Khiến người tan nát cuộc đời,
Kiếp sau mình chẳng an vui được nào.


Tháng Năm  

 



Đăng nhập


Playist


Bạn cần đăng nhập

Tu sĩ Việt Nam



Tu sĩ Quốc Tế


Album mới






Chuyên trang này được lập ra và hoạt động theo tinh thần Pháp Thí .
Tất cả các Kinh/Sách Phật Học trên trang này được sưu tầm từ các website Phật Giáo nên Ban Quản Trị có thể thiếu xót về mặt tác quyền đối với một số sách Phật Học .
Nếu quý Phật Tử / Tổ chức nào đang nắm tác quyền của các tác phẩm trên xin vui lòng Thông báo cho Ban Quản Trị biết, chúng tôi sẽ trao đổi trực tiếp để có thể có được bản quyền hợp lệ đối với các Sách Phật Học đó.
Ban Quản Trị trân trọng cám ơn.


Website có tất cả 78,946 pháp âm và 7,152 album thuộc tất cả các thể loại.
Có tổng cộng 138,925 lượt nghe.
Tổng số tu sĩ trong website 287, gồm cả tu sĩ trong nước và cả quốc tế.
Hiện đang có 1,332 thành viên đã đăng ký. Chào mừng thành viên mới nhất Minh Đức Phạm
Lượt truy cập 36,743,690